Bệnh eczema hay còn được gọi là bệnh chàm, thường được điều trị bằng cách sử dụng cách thuốc chống viêm, giảm ngứa, chống dị ứng. Trong đó, thuốc ức chế calcineurin và thuốc chống nhiễm trùng cũng hay được chuyên gia kê đơn cho người bị eczema. Tuy nhiên, người bệnh không nên sử dụng kéo dài vì có thể dẫn đến một số tác dụng phụ nghiêm trọng.
Điều trị bệnh eczema bằng hai nhóm thuốc ức chế Calcinerin và thuốc chống nhiễm trùng có tác hại gì không?
Bệnh eczema hay còn gọi là bệnh chàm, là một bệnh lý viêm da mạn tính với các biểu hiện da đỏ, ngứa, bong tróc. Việc điều trị bệnh eczema chủ yếu là sử dụng các chế phẩm bôi tại chỗ để giảm ngứa, giảm viêm, chống nhiễm khuẩn. Trong đó, có hai nhóm thuốc có thể được sử dụng đó là thuốc ức chế calcineurin và thuốc chống nhiễm trùng.
1. Thuốc ức chế calcineurin tại chỗ
Các chất ức chế Calcineurin là một phương pháp kiểm soát bệnh chàm mới hiện nay. Chúng hoạt động bằng cách ngăn chặn hoạt động của các tế bào lympho T của hệ thống miễn dịch, đặc biệt thông qua ức chế các protein hoạt hóa các tế bào T này.
Ngoài ra, thuốc cũng ức chế chức năng của các tế bào mast (tế bào chịu trách nhiệm tạo ra histamine - một hợp chất làm thay đổi tính thấm của da). Việc giải phóng histamine sẽ dẫn đến da sự đỏ và sưng phồng. Cả tế bào mast và histamine đều là những thành phần quan trọng của phản ứng dị ứng.
Các tác dụng phụ thường gặp nhất của các chất ức chế calcineurin là phản ứng da, các triệu chứng giống như cúm, phát ban và nhiễm trùng.
Sử dụng kéo dài làm tăng nguy cơ ung thư nhất định chẳng hạn như ung thư da ở vùng da bôi thuốc thường xuyên và ung thư hạch. Cảm giác nóng, ngứa ran và đau nhức là những triệu chứng da thường được báo cáo nhất.
Calineurin cũng có liên quan đến đau cơ, không dung nạp với rượu và đau đầu.
Pimecrolimus và tacrolimus là hai loại thuốc ức chế calcineurin tại chỗ.
2. Thuốc kháng sinh, thuốc chống nấm và thuốc kháng virus
Trong bệnh chàm, đặc biệt là những vùng da được cải thiện bằng thuốc bôi tại chỗ chống viêm, sẽ dễ bị nhiễm trùng hơn.
Vi khuẩn, nấm và virus có thể gây nhiễm trùng cơ hội trên da của người bị eczema.
Vi khuẩn: Tụ cầu vàng (Staph aureus) là loại vi khuẩn gây nhiếm trùng da phổ biến nhất trong bệnh chàm. Không chỉ vậy, tụ cầu vàng cũng là một tác nhân kích hoạt của bệnh chàm.
Cả thuốc kháng sinh tại chỗ và uống đều được sử dụng để trị nhiễm khuẩn eczema thứ phát do vi khuẩn.
Erythromycin là thuốc kháng sinh được sử dụng phổ biến nhất. Có một vài kháng sinh uống được sử dụng cho nhiễm trùng chàm, phổ biến nhất là: Nhóm macrolides, cephalosporin, amoxicillin, clavulanate và clindamycin.
Các tác dụng phụ thường gặp nhất của thuốc kháng sinh là phản ứng quá mẫn (phản ứng dị ứng) và tình trạng kháng thuốc (vi khuẩn không còn bị tiêu diệt hoặc ức chế bởi thuốc).
Virus: Herpes là loại virus thường lây nhiễm nhất trên da của người bị eczema. Nó xuất hiện như những cụm mụn nhỏ, có màu đỏ, đầy chất lỏng giống như mụn nước hoặc vết loét.
Acyclovir là loại thuốc chống virus phổ biến nhất thường được tiêm tĩnh mạch cho người bệnh eczema trong trường hợp bị nhiễm herpes thứ phát nặng. Thuốc cũng có thể được sử dụng qua đường uống, với mục đích phòng ngừa cho những người có tiền sử bệnh chàm da.
Nấm: Nấm gây nhiễm trùng hiếm gặp nhất cho người mắc bệnh eczema. Ketoconazol là loại thuốc được kê đơn thường xuyên nhất và được dùng theo đường uống hoặc tại chỗ.
Tác dụng phụ của ketoconazol bôi tại chỗ là cảm giác nóng và phản ứng da. Tổn thương gan (nhiễm độc gan) và hạ testosterone thường xảy ra khi sử dụng ketoconazol đường uống.